Trong lời giới thiệu đầu tiên về bản thân, PGS-TS.AHLĐ Nguyễn Thị Trâm chia sẻ, bà rất yêu “cỏ cây hoa lá”. Ngoài niềm đam mê nghiên cứu khoa học, lai tạo các giống lúa, bà Trâm dành nhiều thời gian chăm sóc cây cảnh, tạo một “không gian xanh” cho căn nhà của mình nằm trên con phố Trịnh Công Sơn (Hà Nội). Nâng niu bông lúa chín vừa “thu hoạch” trong chuyến đi thực tế Thái Bình cách đây 1 tuần, bà Trâm hồi tưởng về quá khứ, những ngày bà may mắn là học trò của Giáo sư Lương Định Của, được ông chỉ dạy cho cách chọn giống lúa, cách lai giống lúa này với giống lúa kia sao cho hợp lý, hiệu quả: “Ngày ấy, chúng tôi chỉ có cặp mắt, đôi bàn tay, cái kéo, cái nhíp để lai nhưng ai cũng rất say mê”, bà Trâm mở đầu cuộc trò chuyện cùng Cà phê Một Thế Giới.
– Đã khẳng định được tên tuổi với nhiều giống lúa lai làm rạng danh nông nghiệp Việt Nam, bà có thể chia sẻ cơ duyên đưa mình đến với cây lúa?
– PGS-TS Nguyễn Thị Trâm: Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo có 8 anh chị em ở thị xã Thái Nguyên, tôi là chị cả. Bố tôi hoạt động cách mạng bí mật, khi Cách mạng Tháng 8 bùng nổ, ông đi theo kháng chiến, làm quân giới ở các xưởng sản xuất vũ khí của Giáo sư Trần Đại Nghĩa. Tôi theo mẹ và ông bà nội lên Võ Nhai (Thái Nguyên) đi làm ruộng thuê kiếm sống. Cuộc sống rất khó khăn, cơm chỉ 1/3 là gạo, còn 2/3 là độn các loại củ đào được trên rừng, hay lấy cây báng giã ra làm bột độn cơm.
Từ nhỏ, tôi đã rất thích quan sát cỏ cây hoa lá. Mãi năm 11 tuổi khi giải phóng Điện Biên, tôi mới đi học lớp 1. Tới khi học xong cấp 3, trong số các trường như Bách Khoa, Kinh Tế… tôi thấy mình hợp nhất với nông nghiệp. Mình là dân miền núi, ở trong rừng nhiều, mọi hiểu biết cũng hạn chế nên tôi quyết định thi Học viện Nông Nghiệp và đỗ, được phân vào ngành Cây lương thực. Lúc ấy, tôi thấy rất thú vị và nghĩ nếu học tốt, mình sẽ có cơ hội giúp ngành phát triển, giúp gia đình bớt đói khổ, chỉ đơn giản như vậy chứ không có động lực gì đặc biệt.
Thời chiến, chúng tôi vừa học vừa chạy sơ tán, có lần mỗi lớp phải chuyển xuống một cái làng để học. Vất vả như thế nhưng thầy trò đều cố gắng dạy tốt, học tốt. Năm 1968 khi tôi tốt nghiệp cũng là lúc Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm được thành lập, thầy Lương Định Của là Viện trưởng. Trước đó, tôi đã đọc nhiều câu chuyện về thầy Của, tôi rất kính trọng thầy và ghi nguyện vọng xin về Viện công tác ở Gia Lộc (Hải Dương).
– Trong những năm tháng làm học trò của Giáo sư Lương Định Của, có kỷ niệm nào khiến bà ấn tượng sâu sắc nhất?
– PGS-TS Nguyễn Thị Trâm: Thầy trò tôi có rất nhiều kỷ niệm. Thầy là người hiền lành, ít nói, rất ít khi đưa ra nhận xét về con người. Thầy dường như chỉ nhận xét trong trong đầu. Khi thầy hỏi “Em có thích đi làm lúa không?”, tôi thật thà trả lời: “Có ạ!” và sau đó mới biết được thầy nhận. Sau này, tôi hiểu thầy quý mình vì cái tính cần cù. Kết thúc kỳ tập sự, tôi cùng cùng với 5 bạn khác, trong đó có con cả của thầy là anh Lương Hồng Việt được nhận vào bộ môn “Chọn tạo giống lúa” của Viện.
Thầy Của làm việc rất vô tư, làm việc mọi lúc, mọi nơi, trong mọi điều kiện. Thầy là đại biểu Quốc hội nên bận lắm, hay đi họp. Nhưng mỗi lần về tới nhà là thầy ra ruộng ngay. Lúc thì tới ruộng rau, hoa quả; khi thì ra ruộng lúa. Khu vực nào ông cũng tới cùng chúng tôi lội ruộng, chẳng màng ruộng khá sâu, lắm đỉa; chỉ bảo chúng tôi cách chọn giống lúa, cá thể này phải lai với cá thể kia mới được; thầy phân tích rõ những tính trạng của lúa, cây này lụt, cây kia cứng, cây này bông to…
Có một hôm cả nhóm đói lắm, thầy bất ngờ mang ra mấy gói mì sợi và một số đồ ăn của người Nhật Bản (vợ Giáo sư Lương Định Của là người Nhật – PV) đưa cho chúng tôi nấu, thầy trò cùng ngồi ăn vui vẻ ngay bên bờ ruộng. Những kỷ niệm về thầy bình dị như vậy nhưng tôi không thể nào quên, nó giúp tôi rất nhiều trên hành trình nghiên cứu khoa học sau này.
– Vậy đâu là bước ngoặt trong hành trình định hình tư duy, tập trung hết tâm huyết cho việc nghiên cứu lúa lai chọn hiệu ứng ưu thế lai, thưa bà?
– PGS-TS Nguyễn Thị Trâm: Sau khi thầy Lương Định Của đột ngột qua đời cuối năm 1975, chúng tôi vô cùng hụt hẫng, như thể mất đi một điểm tựa tinh thần vô cùng quan trọng.
Đang lúc đội ngũ của chúng tôi khá chênh vênh thì thầy Vũ Tuyên Hoàng tới đảm nhiệm thay vị trí Viện trưởng của thầy Của. Thầy Hoàng từng đi nghiên cứu sinh về lúa ở Liên Xô nên rất hiểu cần phải làm gì để thúc đẩy, tạo thêm động lực cho chúng tôi. Vậy là tôi được đi nghiên cứu sinh ở Liên Xô từ 1980 đến 1984, được tiếp cận với những phương pháp nghiên cứu tiên tiến, được trang bị kiến thức nền tảng về di truyền, chọn giống của nước bạn. Tới năm 1993, theo chủ trương của Bộ Nông Nghiệp và Công nghiệp thực phẩm (sau này là Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) nhằm đảm bảo an ninh lương thực, nâng cao năng suất cây lúa, Bộ trưởng Nguyễn Công Tạn – vốn từng có thời gian học tập tại Trung Quốc, có nhiều mối quan hệ bên đó cộng với sự hỗ trợ từ Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO) – cho chúng tôi sang Trung Quốc, vào hẳn Trung tâm lúa lai Hồ Nam để đào tạo trong 3 tháng.
Thời điểm đó, đoàn có 5 người đại diện cho 5 đơn vị và ông Tạn tới tận nơi, chỉ đích danh và giao nhiệm vụ cụ thể cho từng người. Tôi đại diện cho Học viện Nông Nghiệp, đi học xong về phải viết được giáo trình dạy cho sinh viên. Đại diện Viện Di truyền có nhiệm vụ phải nắm được cơ sở di truyền. Viện Khoa học nông nghiệp, Viện Cây lương thực mỗi nơi một vị phải nắm kỹ về lúa lai ba dòng, lúa lai hai dòng. Đại diện Công ty giống Trung ương phải nắm thật vững về phương pháp sản xuất lúa lai.
Sau chuyến đi Trung Quốc trở về, tôi tập trung tìm hiểu nghiên cứu sâu về lúa lai chọn hiệu ứng ưu thế lai – đây là sáng tạo, phát hiện của Trung Quốc gắn với tên tuổi Giáo sư Viên Long Bình. Còn thời gian trước đó, tôi vừa giảng dạy ở Học viện Nông Nghiệp, vừa chọn tạo giống lúa thường, lai chọn hiệu ứng tái tổ hợp.
– Để mang những gì đã học hỏi ở Trung Quốc về áp dụng ở Việt Nam, bà đã phải đối mặt với nhiều thử thách?
– PGS-TS Nguyễn Thị Trâm: Cái khó là mình không thể bê nguyên bản của Trung Quốc về Việt Nam được. Lúa thích ứng sinh thái tương đối hẹp nên phải tìm các giống lúa thích nghi với điều kiện của đất nước mình. Làm việc, nghiên cứu tới năm 1999 thì tôi đến tuổi về hưu, nhà trường mời tôi làm việc thêm tới năm 2003, 60 tuổi thì tôi nghỉ.
Nhưng thời điểm đó, hoàn cảnh gia đình tôi khó khăn. Hai con của tôi công việc chưa ổn định, mẹ của tôi thì già, chồng mất sớm, lương hưu của tôi thấp. Hằng ngày, tôi vẫn phải ghép táo mang đi bán, trồng thêm rau, nuôi gà có trứng ăn, “tự cung tự cấp” để đời sống bớt cực nhọc.
May là đúng lúc đó có Nghị định 115 quy định về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học và công nghệ ngoài công lập. Trong tình thế đó, tôi xin nhà trường cho thành lập Nhóm nghiên cứu về ưu thế lai, chủ yếu gồm các em sinh viên mới ra trường, đang trong thời gian thực tập chưa có việc làm. Tôi nói các em, làm với cô thì lương thấp nhưng nhiều cái hay. Các em sinh viên phần lớn là con nhà nông, chịu thương chịu khó, muốn trụ ở Hà Nội nên rất chăm chỉ làm cùng tôi. Tới giờ, nhiều em đã thành danh.
– Nghĩa là tới khi về hưu, quyết tâm tạo ra một giống lúa lai chọn hiệu ứng ưu thế lai của bà càng trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết?
– PGS-TS.AHLĐ Nguyễn Thị Trâm: Tôi nghĩ, đã nghiên cứu khoa học thì luôn có nhiều khó khăn và thời điểm nào cũng khó, đặc biệt khi muốn tìm cái mới thì lại càng khó.
Thuận lợi là tôi có nền tảng kiến thức tốt, kể cả lý thuyết và thực hành thông qua quá trình được Giáo sư Lương Định Cửa dìu dắt, quá trình làm nghiên cứu sinh ở Nga và sang Trung Quốc đào tạo. Những kiến thức ấy ngày càng chắc chắn hơn, được rèn luyện nhiều hơn khi tôi giảng dạy ở trường. Các môn dạy của tôi, tôi đều xin dạy từ A tới Z, từ lý thuyết tới thực hành. Tất cả những gì tôi học được từ thầy Của trên đồng ruộng, tôi đều truyền lại hết cho các em và sinh viên rất hứng thú, say sưa học tập.
Quá trình tìm ra dòng bất dục có nhiều khó khăn, cứ phải lai – chọn, lai – chọn… liên tiếp. Làm việc bên ngoài lấy mẫu xong, nắng nôi quá, mệt thì thầy trò tôi lại về phòng thí nghiệm soi kính hiển vi đôi khi đến “toét” cả mắt. Thời điểm 30 năm trước không có điều kiện thử nhanh nên sau vụ mùa tìm được những cây lúa bất dục, chúng tôi còn phải chứng minh nó bất dục di truyền tế bào chất hay là nhân.
Trong khó khăn, chúng tôi nảy ra ý định bứng gốc rạ các cây lúa bất dục đem lên Tam Đảo – nơi có độ cao trên 900m so với mực nước biển, có nhiệt độ trung bình ngày 21 – 24 độ C trong mùa hè. Sau 25 – 30 ngày, lúa chét mọc từ các gốc rạ bất dục đã trổ bông và trong hoa lúa đã có hạt phấn hữu dục. Cuối cùng chúng tôi đã thu được hạt lúa tự thụ phấn từ các cây bất dục trong vụ mùa, tôi mừng như bắt được vàng!
Như vậy là giải thích được: Đây không phải là bất dục di truyền tế bào chất mà là bất dục di truyền nhân. Nhân tế bào có hai chức năng, nếu gặp nhiệt độ thấp 20 – 21 độ thì nó tự hình thành hạt phấn hữu dục và nó tự thụ được ở trên Tam Đảo. Khi gặp nhiệt độ cao 27 – 28 độ tương đương vụ mùa thì nó bất dục.
Và mình có thể nhân giống trong điều kiện mát và sản xuất hạt lai trong điều kiện nóng.
Phát hiện trên chính là cái gốc của vấn đề, là cơ sở nền tảng cho ra đời giống lúa lai hai dòng TH3-3 – di truyền nhân mẫn cảm với nhiệt độ. Và sau đó, tôi còn hướng dẫn một bạn làm thạc sĩ tìm ra dòng bất dục di truyền nhân nhưng mẫn cảm với quang chu kỳ.
TH3-3 hay ở chỗ rất dễ nhận phấn. Cứ trồng 14 hàng mẹ, 2 hàng bố. Đến lúc cây lúa trổ hoa, nông dân dùng cái dây, đứng hai bên bờ ruộng kéo làm tung phấn lên, và như vậy có thể thu được năng suất tới 3 tấn/ha.
Đây là một bước chuyển cực kỳ thú vị bởi trước đây, khi lai thủ công, một ngày mỗi người như tôi làm chăm chỉ chỉ lai được 200 hạt lúa. Chúng tôi vô cùng sung sướng, dù sau đó còn tiếp tục phải trải qua rất nhiều thí nghiệm. Bởi khi lai phải rất chính xác, ghi chép đầy đủ, đeo thẻ cho cây lúa. Ngoài đồng còn có gió, bão và rất nhiều tác động khách quan khác nên phải lai đi lai lại rất nhiều mới ra được thành quả cuối cùng. Công việc vất vả lắm nhưng khi mình đã có dòng bất dục rồi thì yên tâm đi tiếp.
– Trên hành trình cho ra đời TH3-3, còn có trải nghiệm khó quên nào mà bà cùng các cộng sự đã đi qua?
-PGS-TS Nguyễn Thị Trâm: Tôi có một bài học rất sâu sắc. Sau khi đã tìm ra được dòng bất dục, chúng tôi lai thử và tạo ra được một tổ hợp lai ngắn ngày, bông to, cây cứng khỏe mạnh và sản xuất thử được 12 kg hạt lai F1 của tổ hợp này. Bộ trưởng Nguyễn Công Tạn bảo chúng tôi đưa ngay cho Cục Khuyến nông để đem lên Hà Tây trình diễn cùng với lúa lai Trung Quốc. Lúa trổ rất đều đẹp, khi lúa uốn câu, Bộ tổ chức “Hội nghị đầu bờ” mời giám đốc các sở Nông nghiệp, các Trung tâm Khuyến nông tỉnh và đại diện nông dân đến thăm và đánh giá. Ngay tại hội nghị, tôi được Bộ trưởng thưởng nóng 1 triệu đồng. Những năm 90 thế kỷ trước, số tiền đó lớn lắm, vinh dự vô cùng.
Nhưng chỉ khoảng một tuần sau, các anh ở Cục Khuyến nông thông báo lúa của tôi bị bạc lá. Nghĩa là mình chưa đưa được cái gien kháng bạc lá vào và chỉ cần một trận gió là bệnh phát triển. Tôi sợ, run và xấu hổ quá không biết làm thế nào. Suy nghĩ kỹ, tôi quyết định lên gặp ông Tạn thừa nhận mình sốc nổi, xin trả lại tiền thưởng và tỏ ý tìm cách đền tiền cho nông dân. Bởi 12 kg lúa cũng được hơn 1 mẫu, nuôi sống vài gia đình chứ có ít đâu! Và trong câu chuyện này, tôi đã cảm nhận được tình thương xuất phát từ trái tim của Bộ trưởng đối với các nhà khoa học. Ông bảo tôi về làm lại, không được nhụt chí khí; đền tiền cho nông dân thì Bộ đi trình diễn, Bộ đền. Tiền thưởng, ông vẫn khuyên tôi nhận vì đây là tiền thưởng cho thành tích giống lúa lai đầu tiên của Việt Nam. Giống này tốt, tất cả đều công nhận, còn bị bạc lá thì phải cải tiến.
Sau bài học đó, tôi lại lao vào nghiên cứu, tìm hiểu, lai đi lai lại và sau này ra được giống TH3-3 có khả năng kháng bạc lá, đạo ôn, rầy nâu – 3 bệnh chính của lúa.
– Phải mất tới 50 năm – kể từ năm 1968 khi bà mới bắt đầu công tác tại Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm tới năm 2008 khi chuyển nhượng giống lúa lai hai dòng TH3-3 với giá kỷ lục 10 tỉ đồng cho một công ty tư nhân – bà cùng các cộng sự mới có được thành quả tuyệt vời?
- PGS-TS Nguyễn Thị Trâm: Hành trình của tôi là sự tiếp nối những gì được thầy của mình – Giáo sư Lương Định Của trao truyền. Thực tế, thời điểm năm 2008, nếu anh Đoàn Văn Sáu – Công ty TNHH Cường Tân không thể hiện mình là một người có tâm, muốn phát triển, quảng bá cây lúa Việt Nam; và nếu không có một người bạn của tôi giới thiệu, thì có lẽ chúng tôi cũng không chuyển nhượng bản quyền “đứa con tinh thần” TH3-3 – giống lúa lai hai dòng cho năng suất cao (6-7 tấn/ha, có nơi đạt trên 8 tấn/ha), thời gian sinh trưởng ngắn (105 – 115 ngày/vụ mùa; 115 – 125 ngày/vụ xuân), thích hợp với trồng trên đất ba vụ (hai vụ lúa, một vụ màu) – cho Công ty Cường Tân. Với những nhà khoa học như chúng tôi, điều quan trọng nhất không phải là tiền, mà là sản phẩm nghiên cứu của mình được nhân rộng, phát triển, mang tới lợi ích thiết thực cho người nông dân.
Song song với việc nghiên cứu chọn tạo giống lúa lai hai dòng sử dụng bất dục đực di truyền nhân mẫn cảm nhiệt độ làm dòng mẹ, chúng tôi vẫn nghiên cứu chọn tạo giống lúa lai ba dòng. Sau khi mua bản quyền TH3-3, Công ty Cường Tân đã thuê ruộng của nông dân được khoảng 300 ha cách ly không gian rất rộng để sản xuất hạt lai. Tuy nhiên TH3-3 chỉ sản xuất được trong vụ mùa, vụ xuân lại phải sản xuất lúa thường và sẽ lãng phí khu cách ly đã được thiết kế đạt tiêu chuẩn.
Lúc đó, anh Sáu đã đề nghị tôi tạo 1 giống lúa lai ba dòng để Công ty sản xuất trong vụ xuân. Chúng tôi đưa 1 tổ hợp mang số hiệu 16 để họ sản xuất thử đồng thời gửi khảo nghiệm Quốc gia. Năm 2011 tổ hợp 16 này đáp ứng mọi tiêu chuẩn nên được Bộ ra quyết định công nhận. Công ty đề nghị đặt tên là Cường Tân 16 (CT16) và mua bản quyền với giá 500 triệu đồng. CT16 là giống ngắn ngày, thấp cây, chống đổ kháng sâu bệnh khá và thích ứng với vùng có điều kiện canh tác khó khăn, năng suất cao 7-8 tấn/ha. Nông dân các tỉnh Trung du miền núi vẫn quen dùng mặc dù chất lượng gạo chưa cao. Đầu năm 2025 giống CT16 được đưa sang Cuba trồng thử, vụ đầu đạt năng suất 7,2 tấn/ha nên người dân rất phấn khởi.
Tôi cũng muốn nói hêm là trong số tiền 10 tỉ đồng tiền bán bản quyền TH3-3 thời điểm 2008, chúng tôi cũng phải đóng 10% thuế bản quyền. Đúng ra thì phải nộp 30% cho trường theo Luật khoa học công nghệ thời điểm đó nhưng trường rất thương cán bộ khoa học nghèo, nên dành số tiền đó để tái đầu tư: Xây thêm vài phòng thí nghiệm, sửa chữa bờ ruộng, làm thêm nhà lưới, nhà kính, mua một cái ô tô phục vụ công tác… Vậy là hết 4 tỉ đồng.
Số tiền còn lại, tôi dành để trả nợ, chia cho các cộng tác viên và tái đâu tư nghiên cứu, cho tất cả các em đi học thạc sĩ, tiến sĩ… Nhờ đó, sau này chúng tôi tiếp tục làm được giống lúa lai ba dòng và một số đề tài khác chứ không dừng ở TH3-3.
Năm 2012, tôi bán tiếp được giống TH3-5 cho một đối tác với giá 5 tỉ đồng, có thêm tiền “nuôi” đội ngũ của mình. Nhiều người hay nói vui, thời điểm 2008 mà tôi dùng tiền để mua vàng, mua đất thì bây giờ giàu lắm rồi (cười).
– Cả cuộc đời gắn bó, vui buồn với cây lúa, lúc này, bà còn điều gì trăn trở hay ấp ủ?
– PGS-TS Nguyễn Thị Trâm: Trước đây, các nhà khoa học của Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế (IRRI) đã thực hiện 1 dự án với mong muốn chuyển gien beta-carotene (tiền sinh tố A) vào lúa, vì dân châu Phi ăn nhiều gạo mà thiếu carotene sẽ dễ bị bệnh mù lòa, nhất là đối với trẻ em. Việt Nam có một số cán bộ được tham gia dự án chủ yếu để hiểu biết thêm phương pháp. Chúng ta không làm lúa chuyển gien vì cần xuất khẩu gạo.
Đến nay, sau 80 năm phấn đấu, ngành sản xuất lúa gạo của Việt Nam đã đảm bảo an ninh lương thực bền vững cho quốc gia. Việt Nam đã giải quyết được vấn đề chất lượng gạo, tức là tăng độ dẻo, tăng mùi thơm. Ví dụ ST25 đã 3 lần giành giải Nhất cuộc thi “Gạo ngon nhất thế giới” năm 2019, 2023 và 2025.
Nhưng sang giai đoạn mới, lúa gạo cần góp phần đảm bảo an ninh dinh dưỡng giúp cho người Việt khỏe mạnh hơn với nguồn dinh dưỡng an toàn hơn. Để làm được điều này, công tác chọn tạo giống lúa cần phải được nghiên cứu sâu hơn, khai thác thêm nguồn gien tiềm tàng trong tập đoàn giống lúa, tập hợp các gien quý vào những giống ngắn ngày, năng suất cao, chất lượng tốt, tạo ra các giống “lúa chức năng” với chỉ số đường huyết (GI) thấp, hàm lượng “tinh bột kháng tiêu hóa” cao, góp phần hạn chế ung thư ruột kết, nâng cao hàm lượng omega3, kẽm, sắt, đồng, mangan, bo… và tiến tới canh tác lúa hữu cơ với phân đạm hữu cơ xanh (bèo hoa dâu), giảm phát thải khí nhà kính.
Tôi nghĩ, Việt Nam có thể làm được những điều đó, vấn đề quan trọng là nguồn nhân lực. Các bạn trẻ bây giờ có nhiều lựa chọn nên họ cũng không còn say mê như trước. Chế độ đãi ngộ, lương cũng không đủ hấp dẫn họ. Ngay nhóm nghiên cứu của tôi cũng đã “mòn” đi khá nhiều so với trước đây.
Xin cảm ơn bà về cuộc trò chuyện cởi mở cùng Cà phê Một Thế Giới. Xin chúc bà luôn mạnh khoẻ để tiếp tục đóng góp cho sự phát triển của nông nghiệp Việt Nam.
Nguồn: Lê Minh Đức, Tạp chí Một Thế giới